Tự sát là gì? Các công bố khoa học về Tự sát

Tự sát là hành động tự tử của một người, thường là do tình trạng tinh thần bất ổn, căng thẳng, hoặc cảm thấy không thể tìm ra giải pháp cho vấn đề của mình. Việ...

Tự sát là hành động tự tử của một người, thường là do tình trạng tinh thần bất ổn, căng thẳng, hoặc cảm thấy không thể tìm ra giải pháp cho vấn đề của mình. Việc tự sát gây ra nhiều đau khổ cho những người xung quanh và có thể được ngăn chặn thông qua việc cung cấp sự hỗ trợ tâm lý và tình cảm cho người đang gặp khó khăn. Nếu bạn hoặc ai đó bạn biết đang có suy nghĩ tự sát, hãy tìm sự giúp đỡ chuyên nghiệp ngay lập tức.
Tự sát là một vấn đề nghiêm trọng có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào và ở mọi tầng lớp xã hội. Nguyên nhân của hành động này có thể bao gồm các vấn đề tâm lý như trầm cảm, lo âu, rối loạn tâm thần hoặc cảm giác tự ti. Ngoài ra, cũng có thể có các yếu tố từ môi trường xã hội như áp lực từ công việc, xã hội, gia đình, quan hệ tình cảm.

Nếu bạn hoặc ai đó bạn biết đang có suy nghĩ tự sát, hãy cố gắng tạo ra môi trường an toàn, lắng nghe và hỗ trợ họ tìm kiếm sự giúp đỡ từ các chuyên gia tâm lý hoặc tổ chức hỗ trợ tâm lý. Các tổ chức y tế và tâm lý hỗ trợ cung cấp thông tin và dịch vụ để giúp người mắc bệnh tâm thần và người gặp khó khăn tâm lý có thể tìm được giải pháp và hỗ trợ cần thiết. Nếu bạn hoặc ai đó đang đối diện với nguy cơ tự sát, hãy liên lạc với các tổ chức cứu trợ tâm lý hoặc gọi ngay đến số cấp cứu.
Các triệu chứng tiềm ẩn của nguy cơ tự sát có thể bao gồm thay đổi đột ngột trong tâm trạng, thu thập hoặc tìm kiếm vật dụng liên quan đến tự sát, rút lui khỏi các hoạt động xã hội, cảm giác tuyệt vọng, cảm thấy bất lực, không giá trị, không có hy vọng, cảm giác trống rỗng, và có thể thậm chí là lên kế hoạch chi tiết cho hành động tự sát.

Nếu bạn nghi ngờ ai đó có nguy cơ tự sát, hãy lắng nghe họ một cách tôn trọng, hiểu và chia sẻ thông tin này với người khác có thể hỗ trợ. Hỗ trợ từ các chuyên gia tâm lý, gia đình và bạn bè là rất quan trọng. Đừng từ chối hoặc bỏ qua bất kỳ tín hiệu cảnh báo nào và hãy khuyến khích họ tìm kiếm sự giúp đỡ chuyên nghiệp.

Nếu bạn cảm thấy bạn hoặc ai đó mà bạn biết đang đối mặt với nguy cơ tự sát, hãy tìm kiếm ngay sự giúp đỡ từ nhân viên y tế, tổ chức cứu trợ tâm lý, gia đình và bạn bè để giúp họ vượt qua khó khăn và tình trạng tâm lý tiềm ẩn.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "tự sát":

A Simplest Systematics for the Organization of Turn-Taking for Conversation
Language - Tập 50 Số 4 - Trang 696 - 1974
The investment opportunity set and corporate financing, dividend, and compensation policies
Journal of Financial Economics - Tập 32 Số 3 - Trang 263-292 - 1992
Manufacture, characterisation and application of cellular metals and metal foams
Progress in Materials Science - Tập 46 Số 6 - Trang 559-632 - 2001
Features of 20 133 UK patients in hospital with covid-19 using the ISARIC WHO Clinical Characterisation Protocol: prospective observational cohort study
BMJ, The - - Trang m1985
AbstractObjectiveTo characterise the clinical features of patients admitted to hospital with coronavirus disease 2019 (covid-19) in the United Kingdom during the growth phase of the first wave of this outbreak who were enrolled in the International Severe Acute Respiratory and emerging Infections Consortium (ISARIC) World Health Organization (WHO) Clinical Characterisation Protocol UK (CCP-UK) study, and to explore risk factors associated with mortality in hospital.DesignProspective observational cohort study with rapid data gathering and near real time analysis.Setting208 acute care hospitals in England, Wales, and Scotland between 6 February and 19 April 2020. A case report form developed by ISARIC and WHO was used to collect clinical data. A minimal follow-up time of two weeks (to 3 May 2020) allowed most patients to complete their hospital admission.Participants20 133 hospital inpatients with covid-19.Main outcome measuresAdmission to critical care (high dependency unit or intensive care unit) and mortality in hospital.ResultsThe median age of patients admitted to hospital with covid-19, or with a diagnosis of covid-19 made in hospital, was 73 years (interquartile range 58-82, range 0-104). More men were admitted than women (men 60%, n=12 068; women 40%, n=8065). The median duration of symptoms before admission was 4 days (interquartile range 1-8). The commonest comorbidities were chronic cardiac disease (31%, 5469/17 702), uncomplicated diabetes (21%, 3650/17 599), non-asthmatic chronic pulmonary disease (18%, 3128/17 634), and chronic kidney disease (16%, 2830/17 506); 23% (4161/18 525) had no reported major comorbidity. Overall, 41% (8199/20 133) of patients were discharged alive, 26% (5165/20 133) died, and 34% (6769/20 133) continued to receive care at the reporting date. 17% (3001/18 183) required admission to high dependency or intensive care units; of these, 28% (826/3001) were discharged alive, 32% (958/3001) died, and 41% (1217/3001) continued to receive care at the reporting date. Of those receiving mechanical ventilation, 17% (276/1658) were discharged alive, 37% (618/1658) died, and 46% (764/1658) remained in hospital. Increasing age, male sex, and comorbidities including chronic cardiac disease, non-asthmatic chronic pulmonary disease, chronic kidney disease, liver disease and obesity were associated with higher mortality in hospital.ConclusionsISARIC WHO CCP-UK is a large prospective cohort study of patients in hospital with covid-19. The study continues to enrol at the time of this report. In study participants, mortality was high, independent risk factors were increasing age, male sex, and chronic comorbidity, including obesity. This study has shown the importance of pandemic preparedness and the need to maintain readiness to launch research studies in response to outbreaks.Study registrationISRCTN66726260.
Vaccination of melanoma patients with peptide- or tumorlysate-pulsed dendritic cells
Nature Medicine - Tập 4 Số 3 - Trang 328-332 - 1998
Naturalistic inquiry and the saturation concept: a research note
Qualitative Research - Tập 8 Số 1 - Trang 137-152 - 2008
Saturation is mentioned in many qualitative research reports without any explanation of what it means and how it occurred. Recognizing the saturation point presents a challenge to qualitative researchers, especially in the absence of explicit guidelines for determining data or theoretical saturation. This research note examines the saturation concept in naturalistic inquiry and the challenges it presents. In particular, it summarizes the saturation process in a grounded theory study of community-based antipoverty projects. The main argument advanced in this research note is that claims of saturation should be supported by an explanation of how saturation was achieved and substantiated by clear evidence of its occurrence.
Code Saturation Versus Meaning Saturation
Qualitative Health Research - Tập 27 Số 4 - Trang 591-608 - 2017
Saturation is a core guiding principle to determine sample sizes in qualitative research, yet little methodological research exists on parameters that influence saturation. Our study compared two approaches to assessing saturation: code saturation and meaning saturation. We examined sample sizes needed to reach saturation in each approach, what saturation meant, and how to assess saturation. Examining 25 in-depth interviews, we found that code saturation was reached at nine interviews, whereby the range of thematic issues was identified. However, 16 to 24 interviews were needed to reach meaning saturation where we developed a richly textured understanding of issues. Thus, code saturation may indicate when researchers have “heard it all,” but meaning saturation is needed to “understand it all.” We used our results to develop parameters that influence saturation, which may be used to estimate sample sizes for qualitative research proposals or to document in publications the grounds on which saturation was achieved.
Organic–Inorganic Perovskites: Structural Versatility for Functional Materials Design
Chemical Reviews - Tập 116 Số 7 - Trang 4558-4596 - 2016
A constitutive model for partially saturated soils
Geotechnique - Tập 40 Số 3 - Trang 405-430 - 1990
The Paper presents a constitutive model for describing the stress-strain behaviour of partially saturated soils. The model is formulated within the framework of hardening plasticity using two independent sets of stress variables: the excess of total stress over air pressure and the suction. The model is able to represent, in a consistent and unified manner, many of the fundamental features of the behaviour of partially saturated soils which had been treated separately by previously proposed models. On reaching saturation, the model becomes a conventional critical state model. Because experimental evidence is still limited, the model has been kept as simple as possible in order to provide a basic framework from which extensions are possible. The model is intended for partially saturated soils which are slightly or moderately expansive. After formulating the model for isotropic and triaxial stress states, typical predictions are described and compared, in a qualitative way, with characteristic trends of the behaviour of partially saturated soils. Afterwards, the results of a number of suction-controlled laboratory tests on compacted kaolin and a sandy clay are used to evaluate the ability of the model to reproduce, quantitatively, observed behaviour. The agreement between observed and computed results is considered satisfactory and confirms the possibilities of reproducing the most important features of partially saturated soil behaviour using a simple general framework. L'article présente un modèle constitutif pour décrire le comportement contrainte/déformation des sols partiellement saturés. Le modèle est formulé dans le cadre de la plasticité qui s'endurcit, en uti-lisant deux jeux indépendants de variables de contrainte, c'est-à-dire l'excès de la contrainte totale sur la pression de Pair et la succion. Le modèle peut représenter d'une façon logique et unifiée beaucoup des caractéristiques fondamentales du comportement des sols partiellement saturés qui avaient été traités séparément dans des modèles proposés précédemment. Lorsque la saturation est atteinte le modèle devient un modèle conventionnel d'état critique. Comme les données expérimentales restent encore limitées, le modèle d'été simpliné le plus que possible, afin de fournir un cadre de base à partir duquel des extensions sont possibles. Le modèle convicnt à des sols partiellement saturés qui sont expansifs à un degré faible ou modéré. Le modèle est d'abord formulé pour des états de contrainte isotropes et triaxiaux. Puis l'article décrit des prédictions typiques et les compare de façon qualitative avec des tendances caractéristiques du comportement des sols partiellement saturés. Les résultats de quelques essais régis par la succion eftectués dans le laboratoire sur du kaolin compact et sur une argile sablonneuse sont utilisés afin d'evaluer la capacité du modèle de reproduire de façon quantitative le comportement observé. On considère que les résultats observés et calculés s'accordent bien et qu'ils confirment les possibilités de reproduire les caractéristiques les plus importantes du comportement des sols partiellement saturés par l'utilisation d'un cadre général très simple.
Tổng số: 25,693   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10